TÁC ĐỘNG TĂNG LÃI SUẤT QUYẾT LIỆT CỦA FED LÊN THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA?
Làn sóng thắt chặt chính sách tiền tệ trên toàn cầu đã và đang là một trong những sức ép lớn đối với thị trường tài chính thế giới nói chung, và thị trường hàng hoá nói riêng.
“Chúng ta đang chứng kiến Fed có những động thái thắt chặt chính sách tiền tệ quyết liệt nhất kể từ đầu những năm 1980. Họ sẵn sàng chấp nhận tỷ lệ thất nghiệp cao và suy thoái kinh tế”, ông Chris Turner, giám đốc toàn cầu phụ trách các thị trường tại ING, nhận xét. “Điều này không tốt chút nào cho tăng trưởng kinh tế thế giới”.
Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (Fed) hiện là cơ quan tiên phong trong việc thực hiện tăng lãi suất để đối phó với lạm phát. Kể từ tháng 3 tới nay, Fed đã tiến hành tăng lãi suất 5 lần liên tiếp, và đưa mức lãi suất lên 3.25 – 3.50%, cao nhất kể từ tháng 1/2008. Động thái này đã khiến cho đồng USD mạnh lên, phản ánh qua chỉ số Dollar Index, thước đo giá trị của đồng USD so với một giỏ các loại tiền tệ khác, đã tăng 18.67%. Đáng chú ý, mức tăng trưởng này hoàn toàn áp đảo khi so sánh với các loại tài sản đầu tư khác như chứng khoán, hay hàng hoá
Nhóm kim loại với hai mặt hàng chính là bạc và đồng sụt giảm lần lượt 19.61% và 25.74%. Các mặt hàng khác như dầu thô, hay nhóm nông sản (đậu tương, ngô và lúa mì) dù vẫn duy trì được mức tăng trưởng dương so với đầu năm nay, nhưng đều thấp hơn so với mức tăng của đồng bạc xanh.
TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC TỚI NỀN KINH TẾ TOÀN CẦU.
Mỹ hiện vẫn là nền kinh tế có quy mô lớn nhất thế giới, còn đồng USD vẫn là đồng tiền chính được sử dụng trong các hoạt động thương mại quốc tế, vì thế các chính sách tiền tệ của Fed sẽ có tầm ảnh hưởng vượt ra ngoài biên giới lãnh thổ Mỹ.
Đồng bạc xanh tăng giá đang gây sức ép đến hệ thống thanh toán quốc tế trên toàn cầu và buộc các quốc gia khác phải tiến hành nâng lãi suất để tránh rủi ro tỷ giá. Không chỉ có các đồng tiền ở các nền kinh tế mới nổi mất giá, đồng tiền của các nước phát triển cũng đều không theo kịp sự tăng giá của đồng USD. Tỷ giá đồng Nhân dân tệ, Yên, Rupee, Euro và Bảng Anh đều giảm mạnh so với USD, khiến việc nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu như thực phẩm và nhiên liệu bằng các tiền tệ này trở nên đắt đỏ hơn. Việc “nhập khẩu” lạm phát từ Mỹ này đang gây áp lực lớn đối với ngân hàng trung ương ở nhiều quốc gia.
Một mặt, đồng USD tăng giá có thể sẽ thúc đẩy các quốc gia sản xuất hàng hóa lớn như Brazil, Chile và Peru (hai nhà xuất khẩu đồng lớn nhất thế giới) đẩy mạnh bán hàng và gia tăng nguồn cung hàng hóa. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn, khi nền lãi suất tiếp tục tăng và các doanh nghiệp sẽ phải tiến hành cắt giảm chi phí và cả quy mô sản xuất trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ hàng hoá kém đi vì người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu.
OECD cho rằng nhiều nền kinh tế lớn sẽ rơi vào suy thoái trong năm sau. Sản lượng toàn cầu năm 2023 được dự báo thấp hơn 2.800 tỷ USD, tương đương quy mô của nền kinh tế Pháp. Ông Steve Hanke, giáo sư kinh tế học ứng dụng tại Đại học Johns Hopkins, dự báo khả năng kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái lên tới 80%.
Đây cũng là nguyên nhân chính khiến cho giá hàng hoá lao dốc kể từ đầu tháng 6. Những rủi ro vĩ mô gần như đã lấn át hoàn toàn những lo ngại về việc thiếu hụt nguồn cung và trực tiếp khiến cho thị trường hàng hoá đối mặt với sức ép bán lớn. Bên cạnh đó, việc Fed tiếp tục mạnh tay tăng lãi suất cũng khiến cho đồng USD và trái phiếu Chính phủ Mỹ trở nên hấp dẫn hơn so với các loại tài sản rủi ro.
CUỘC ĐUA LÃI SUẤT NHƯNG CHƯA CÓ HIỆU QUẢ
Tuần qua, theo sau động thái của Fed, ngân hàng trung ương tại nhiều nước gồm Thụy Sỹ, Anh, Na Uy, Indonesia, Nam Phi, Nigeria, Philippines và vùng lãnh thổ Đài Loan đều đã nâng lãi suất cơ bản.
Lần đầu tiên sau 24 năm, Nhật bản đã quyết định có biện pháp can thiệp để ổn định tỷ giá đồng Yên so với USD. Từ đầu năm đến nay, đồng nội tệ của Nhật đã giảm 26% so với USD. Dù vậy, Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) vẫn đang nằm ngoài xu hướng của các ngân hàng trung ương lớn khác trên thế giới khi chưa tăng lãi suất bất chấp lạm phát leo thang.
Trung Quốc cũng đang theo dõi thị trường tiền tệ sau khi tỷ giá Nhân dân tệ tại thị trường Trung Quốc đại lục và ngoài đại lục giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu năm 2008.
Trong khi đó, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Christine Lagarde đầu tuần này cảnh báo rằng tỷ giá Euro so với USD lao dốc mạnh đang làm gia tăng thêm áp lực lạm phát với nền kinh tế châu Âu.
Còn ở Anh, kế hoạch kích thích tăng trưởng của chính phủ mới đang khiến tình hình mất kiểm soát, gây ra cú sốc với giới đầu tư. Sau khi Ngân hàng trung ương Anh (BOE) tăng lãi suất cách đây không lâu, mới đây, chính quyền của tân Thủ tướng Liz Truss công bố gói hỗ trợ tài chính trị giá 45 tỷ Bảng, bao gồm chương trình giảm thuế quy mô lớn chưa từng thấy tại quốc gia này kể từ năm 1972. Thông báo này khiến tỷ giá đồng bảng Anh đã giảm xuống mức thấp kỷ lục so với USD.
Để trấn an thị trường, ngày 28/9, BOE thông báo sẽ mua vào trái phiếu chính phủ dài hạn trong vòng 2 tuần tới với một số lượng đủ để ổn định thị trường tài chính. Trước một loạt động thái này, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cảnh báo rằng chính phủ Anh nên xem xét lại các kế hoạch của mình.
“Thị trường tài chính toàn cầu giờ đây giống như một cái nồi áp suất vậy”, ông Turner nói. “Chúng ta cần phải có các chính sách mạnh mẽ và đáng tin cậy. Mọi bước đi sai lầm trong chính sách đều sẽ phải trả giá”.
KỲ VỌNG LỚN ĐẶT LÊN VAI TRUNG QUỐC
Giữa làn sóng tăng lãi suất đang lan toả trên toàn cầu, Trung Quốc và Nhật Bản là những nước đi ngược lại xu hướng này. Theo dự báo của Ngân hàng đầu tư UBS, Trung Quốc sẽ không tăng lãi suất trong thời gian còn lại của năm nay và cả năm 2023.
Nguyên nhân chính cho sự phân hoá này nằm ở việc nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu đang phải chật vật khi Chính phủ Trung Quốc thực hiện các biện pháp chống dịch nghiêm ngặt. Trước đó, cuộc khủng hoảng của thị trường bất động sản đã khiến cho nhu cầu tiêu thụ với các mặt hàng kim loại như đồng và quặng sắt giảm bớt, thì hiện nay sự suy yếu của nền kinh tế Trung Quốc đang làm sụt giảm nhu cầu đối với cả các mặt hàng nông sản và năng lượng.
Kinh tế Trung Quốc đã khởi sắc trong quý III sau khi chững lại vào quý II. Tuy nhiên, đà phục hồi vẫn bị cản trở bởi các đợt bùng phát lẻ tẻ ở những thành phố trên khắp đất nước, thị trường nhà ở suy yếu và nhu cầu tại các thị trường nhập khẩu sụt giảm. Nhiều nhà đầu tư kỳ vọng vào việc nền kinh tế Trung Quốc sẽ quay trở lại ngoạn mục vào cuối năm nay, sau khi đại hội Đảng kết thúc, bởi giai đoạn cuối năm thường là cao điểm cho các hoạt động xuất khẩu để phục vụ các dịp lễ của phương Tây.
Tuy nhiên, mới đây, Ngân hàng Thế giới (World Bank) đã điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới xuống 2.8%, thấp hơn so với mức tăng trưởng 8.1% của năm ngoái và mức dự đoán hồi tháng 4 là từ 4 - 5%. World Bank cũng dự báo các nền kinh tế đang phát triển ở Đông Á sẽ tăng trưởng nhanh hơn Trung Quốc trong năm nay, lần đầu tiên kể từ năm 1990.
Chính phủ Trung Quốc có thể sẽ tìm cách vực dậy nền kinh tế, tuy nhiên các biện pháp kích thích có thể chỉ xuất hiện từ cuối năm nay và đầu năm 2023. Triển vọng kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn vẫn kém khả quan và rất khó để các quốc gia trên thế giới theo kịp tốc độ tăng lãi suất của Mỹ.
Vì thế, thị trường hàng hóa cũng như các loại tài sản rủi ro khác sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực từ sự tăng giá của đồng USD cho đến khi Fed phát ra các tín hiệu giảm tốc độ tăng lãi suất.
LIÊN HỆ: LAN ANH HCT
💁♂️ Mở tài khoản: TẠI ĐÂY
📱 Điện thoại : 0949882346
❌ Zalo group: https://zalo.me/g/abmkco596
Nhận xét
Đăng nhận xét